Theo kết quả Pisa năm 2015, Việt Nam xếp thứ 8 trên tổng số 72 quốc gia tham gia đánh giá. Chu kỳ PISA 2015, trọng tâm được đánh giá là lĩnh vực Khoa học cho thấy:
- Lĩnh vực Khoa học, Việt Nam đứng thứ 8 (Top 10);
- Lĩnh vực Toán học, Việt Nam đứng thứ 22;
- Lĩnh vực Đọc hiểu là 32.
So với trung bình kết quả của các nước OECD:
Ở lĩnh vực Khoa học: kết quả trung bình của các quốc gia OECD là 493 điểm, của học sinh Việt Nam là 525 điểm. Kết quả của học sinh Việt Nam cao hơn trung bình các nước OECD 31,4 điểm một cách có ý nghĩa thống kê.
Ở lĩnh vực Toán học: Kết quả trung bình của các quốc gia OECD là 490 điểm, của học sinh Việt Nam là 495 điểm. Kết quả kiểm định về sự khác biệt kết quả trung bình của hai mẫu độc lập cho thấy: kết quả của học sinh Việt Nam cao hơn kết quả trung bình của OECD 5 điểm nhưng sự kiểm định cho thấy, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, nghĩa là kết quả Toán học của học sinh Việt Nam tương đương với điểm trung bình của OECD.
Ở lĩnh vực Đọc hiểu: Kết quả trung bình của các quốc gia OECD là 493 điểm, của học sinh Việt Nam là 487 điểm. Mặc dù kết quả trung bình lĩnh vực Đọc hiểu của Việt Nam thấp hơn trung bình của các quốc gia/vùng lãnh thổ OECD 6 điểm nhưng sự kiểm định cho thấy, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, nghĩa là kết quả Đọc hiểu của học sinh Việt Nam tương đương với điểm trung bình của OECD.
Kết quả PISA 2015 cho thấy một số điểm nổi bật về năng lực của học sinh Việt Nam ở ba lĩnh vực Khoa học, Toán học, Đọc hiểu. Học sinh Việt Nam có thể đáp ứng được các yêu cầu của OECD trong thời kỳ hội nhập quốc tế, các em đã biết vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống trong bài thi PISA.
Đặc biệt, kết quả Top 10 ở lĩnh vực Khoa học mang đến cho Việt Nam một ý nghĩa quan trọng về sự phát triển năng lực của học sinh, đa số các em đã nắm vững kiến thức khoa học cơ bản, phát huy được khả năng lập luận, giải thích và áp dụng kiến thức khoa học vào giải quyết nhiều tình huống thực tiễn của cuộc sống. Một tỷ lệ học sinh (gần 10%) đạt kết quả ở cấp độ năng lực khoa học cao nhất (mức 5, 6) cho thấy nhóm học sinh này đủ tự tin để giải quyết những tình huống khoa học và công nghệ phức tạp trong cuộc sống hiện đại.
Mẫu khảo sát PISA 2015 của Việt Nam
Quy trình, kỹ thuật chọn mẫu do OECD chịu trách nhiệm, Việt Nam cung cấp danh sách các cơ sở giáo dục có học sinh tuổi 15 cho OECD, OECD chọn trường, gửi danh sách trường về cho Việt Nam, Việt Nam thống kê danh sách học sinh tuổi 15 gửi cho OECD; OECD chọn mẫu học sinh.
Theo danh sách chọn mẫu khảo sát chính thức PISA 2015, Việt Nam có 197 cơ sở giáo dục được chọn, trong đó có 01 trường nghề, 09 Trung tâm giáo dục thường xuyên, 04 trường phổ thông liên cấp (cấp 2 và cấp 3), 04 trường phổ thông dân tộc nội trú, 28 trường THCS và 150 trường THPT. Mỗi trường có 35 học sinh tham gia và một số trường có số HS tuổi 15 ít hơn 35 em.
Sau khi đàm phán, OECD đồng ý cho Việt Nam lược bỏ 09 trường mẫu nhỏ, học sinh dưới 5 em tuổi 15. Tổng số mẫu trường tham gia khảo sát chính thức thực tế là 188 trường với 5.826 học sinh trên toàn quốc. Khảo sát chính thức PISA chu kỳ 2015 diễn ra tại Việt Nam vào cuối tháng 4/2015.
Việt Nam tham gia chu kỳ đầu tiên là PISA 2012, chính thức triển khai các hoạt động của PISA vào tháng 3 năm 2010; OECD đã công bố kết quả PISA 2012 vào tháng 12/2013; Việt Nam đã hoàn thành PISA chu kỳ 2015 và hiện nay đang tiếp tục triển khai PISA chu kỳ 2018. Việt Nam tham gia PISA ngoài các mục đích chung giống như các quốc gia khác, Việt Nam còn có các mục đích cụ thể sau:
Tham gia PISA là một bước tích cực hội nhập quốc tế về giáo dục; Góp phần đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá trên lớp học và đánh giá trên diện rộng theo hướng đánh giá năng lực của học sinh; phát triển tư duy độc lập, sáng tạo trong học tập của học sinh và khả năng vận dụng các kiến thức đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn.
Tham gia PISA là bước chuẩn bị tích cực cho lộ trình đổi mới giáo dục sau 2015, thay đổi chương trình, sách giáo khoa mới theo hướng phát triển năng lực của học sinh.
Kết quả của Việt Nam và các nước tham gia PISA 2015
Science (Khoa học)
|
Reading (Đọc hiểu)
|
Mathematics (Toán học)
|
|
Các nước
|
Điểm trung bình PISA 2015
|
Sự thay đổi so với chu kì trước
|
Điểm trung bình PISA 2015
|
Sự thay đổi so với chu kì trước
|
Điểm trung bình PISA 2015
|
Sự thay đổi so với chu kì trước
|
|
Mean
|
Score dif.
|
Mean
|
Score dif.
|
Mean
|
Score dif.
|
Điểm trung bình của OECD
|
493
|
-1
|
493
|
-1
|
490
|
-1
|
1. Singapore
|
556
|
7
|
535
|
5
|
564
|
1
|
2. Japan
|
538
|
3
|
516
|
-2
|
532
|
1
|
3. Estonia
|
534
|
2
|
519
|
9
|
520
|
2
|
4. Chinese Taipei
|
532
|
0
|
497
|
1
|
542
|
0
|
5. Finland
|
531
|
-11
|
526
|
-5
|
511
|
-10
|
6. Macao (China)
|
529
|
6
|
509
|
11
|
544
|
5
|
7. Canada
|
528
|
-2
|
527
|
1
|
516
|
-4
|
8. Viet Nam
|
525
|
-4
|
487
|
-21
|
495
|
-17
|
9. Hong Kong (China)
|
523
|
-5
|
527
|
-3
|
548
|
1
|
10. B-S-J-G (China)
|
518
|
m
|
494
|
m
|
531
|
m
|
11. Korea
|
516
|
-2
|
517
|
-11
|
524
|
-3
|
12. New Zealand
|
513
|
-7
|
509
|
-6
|
495
|
-8
|
13. Slovenia
|
513
|
-2
|
505
|
11
|
510
|
2
|
14. Australia
|
510
|
-6
|
503
|
-6
|
494
|
-8
|
15. United Kingdom
|
509
|
-1
|
498
|
2
|
492
|
-1
|
16. Germany
|
509
|
-2
|
509
|
6
|
506
|
2
|
17. Netheriands
|
509
|
-5
|
503
|
-3
|
512
|
-6
|
18. Switzerland
|
506
|
-2
|
492
|
-4
|
521
|
-1
|
19. Ireland
|
503
|
0
|
521
|
13
|
504
|
0
|
20. Belgium
|
502
|
-3
|
499
|
-4
|
507
|
-5
|
21. Denmark
|
502
|
2
|
500
|
3
|
511
|
-2
|
22. Poland
|
501
|
3
|
506
|
3
|
504
|
5
|
23. Portugal
|
501
|
8
|
498
|
4
|
492
|
7
|
24. Norway
|
498
|
3
|
513
|
5
|
502
|
1
|
25. United States
|
496
|
2
|
497
|
-1
|
470
|
-2
|
26. Austria
|
495
|
-5
|
485
|
-5
|
497
|
-2
|
27. France
|
495
|
0
|
499
|
2
|
493
|
-4
|
28. Sweden
|
493
|
-4
|
500
|
1
|
494
|
-5
|
29. Czech Republic
|
493
|
-5
|
487
|
5
|
492
|
-6
|
30. Spain
|
493
|
2
|
496
|
7
|
486
|
1
|
31. Latvia
|
490
|
1
|
488
|
2
|
482
|
0
|
32. Russia
|
487
|
3
|
495
|
17
|
494
|
6
|
33. Luxembourg
|
483
|
0
|
481
|
5
|
486
|
-2
|
34. Italy
|
481
|
2
|
485
|
0
|
490
|
7
|
35. Hungary
|
477
|
-9
|
470
|
-12
|
477
|
-4
|
36. Lithuania
|
475
|
-3
|
472
|
2
|
478
|
-2
|
37. Croatia
|
475
|
-5
|
487
|
5
|
464
|
0
|
38. CABA (Argentina)
|
475
|
51
|
475
|
46
|
456
|
38
|
39. Iceland
|
473
|
-7
|
482
|
-9
|
488
|
-7
|
40. Israel
|
467
|
5
|
479
|
2
|
470
|
10
|
41. Malta
|
465
|
2
|
447
|
3
|
479
|
9
|
42. Slovak Republic
|
461
|
-10
|
453
|
-12
|
475
|
-6
|
43. Greece
|
455
|
-6
|
467
|
-8
|
454
|
1
|
44. Chile
|
447
|
2
|
459
|
5
|
423
|
4
|
45. Bulgaria
|
446
|
4
|
432
|
1
|
441
|
9
|
46. United Arab Emirates
|
437
|
-12
|
434
|
-8
|
427
|
-7
|
47. Uruguay
|
435
|
1
|
437
|
5
|
418
|
-3
|
48. Romania
|
435
|
6
|
434
|
4
|
444
|
10
|
49. Cyprus1
|
433
|
-5
|
443
|
-6
|
437
|
-3
|
50. Moldova
|
428
|
9
|
416
|
17
|
420
|
13
|
51. Albania
|
427
|
18
|
405
|
10
|
413
|
18
|
52. Turkey
|
425
|
2
|
428
|
-18
|
420
|
2
|
53. Trinidad and Tobago
|
425
|
7
|
427
|
5
|
417
|
2
|
54. Thailand
|
421
|
2
|
409
|
-6
|
415
|
1
|
55. Costa Rica
|
420
|
-7
|
427
|
-9
|
400
|
-6
|
56. Qatar
|
418
|
21
|
402
|
15
|
402
|
26
|
57. Colombia
|
416
|
8
|
425
|
6
|
390
|
5
|
58. Mexico
|
416
|
2
|
423
|
-1
|
408
|
5
|
59. Montenegro
|
411
|
1
|
427
|
10
|
418
|
6
|
60. Georgia
|
411
|
23
|
401
|
16
|
404
|
15
|
61. Jordan
|
409
|
-5
|
408
|
2
|
380
|
-1
|
62. Indonesia
|
403
|
3
|
397
|
-2
|
386
|
4
|
63. Brazil
|
401
|
3
|
407
|
-2
|
377
|
6
|
64. Peru
|
397
|
14
|
398
|
14
|
387
|
10
|
65. Lebanon
|
386
|
m
|
347
|
m
|
396
|
m
|
66. Tunisia
|
386
|
0
|
361
|
-21
|
367
|
4
|
67. FYROM
|
384
|
m
|
352
|
m
|
371
|
m
|
68. Kosovo
|
378
|
m
|
347
|
m
|
362
|
m
|
69. Algeria
|
376
|
m
|
350
|
m
|
360
|
m
|
70. Dominican Republic
|
332
|
m
|
358
|
m
|
328
|
m
|
Kết quả của Việt Nam so với điểm trung bình của OECD ở 3 lĩnh vực Khoa học, Đọc hiểu và Toán học:
PISA là tên gọi tắt của Chương trình đánh giá học sinh quốc tế, do OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới) khởi xướng và chỉ đạo. PISA là chương trình đánh giá học sinh có quy mô lớn nhất trên thế giới hiện nay. Việt Nam tham gia PISA chu kỳ đầu tiên năm 2012, đã hoàn thành chu kỳ PISA 2015 và đang tiếp tục triển khai PISA 2018.
Đối tượng đánh giá là học sinh độ tuổi 15, độ tuổi kết thúc giai đoạn giáo dục bắt buộc ở hầu hết các quốc gia. PISA tập trung đánh giá năng lực của học sinh ở ba lĩnh vực chính là Đọc hiểu, Toán học và Khoa học. Đến chu kỳ PISA 2012 đã phát triển thêm một số lĩnh vực đánh giá tự chọn như đánh giá năng lực giải quyết vấn đề, đánh giá năng lực tài chính, đánh giá năng lực sử dụng công nghệ thông tin. Đến chu kỳ PISA 2018 phát triển thêm đánh giá năng lực công dân toàn cầu. PISA ở những chu kỳ đầu thực hiện bài thi trên giấy, từ chu kỳ 2012 đã có thêm hình thức đánh giá trên máy tính. Hiện nay, đến chu kỳ PISA 2015, 2018 chỉ còn khoảng 10 nước sử dụng bài thi trên giấy.